Việc hạn hán và xâm nhập mặn kỷ lục ở đồng bằng sông Cửu Long đang đặt ra yêu cầu cơ cấu lại cây trồng vật nuôi cũng như phương thức canh tác tại vựa lúa của quốc gia, vì thế cũng đồng thời đặt ra yêu cầu có một chiến lược tái cơ cấu chung cho nền nông nghiệp trên phạm vi cả nước. Tùy vào cách thức xử lý vấn đề đang tồn tại ở đồng bằng sông Cửu Long mà diện mạo của nền nông nghiệp quốc gia sẽ có hình dạng ra sao trong tương lai. Nhưng đến thời điểm này, có thể nói rằng ngành nông nghiệp Việt Nam đang tiếp tục đi ngược đường.
Những gì đang diễn ra ở đồng bằng sông Cửu Long đang là minh chứng rõ nét cho chủ trương phát triển theo kiểu “ngược đời” của ngành nông nghiệp Việt Nam. Bất chấp những quan điểm cần chuyển đổi giống cây trồng mạnh mẽ tại nhiều khu vực dễ bị xâm mặn tại đồng bằng sông Cửu Long, không chỉ có tốn ít chi phí cải tạo đồng thời lại có hiệu quả kinh tế cao hơn cho người nông dân, thì số diện tích đất nông nghiệp được chuyển đổi lại rất ít. Trong số 3,8 triệu hecta đất nông nghiệp dùng để trồng lúa, số diện tích đất được chuyển mục đích sử dụng chỉ là 52.000 ha. Trong số 3,76 triệu hecta được giữ lại, có khoảng 400.000 ha được quy hoạch để chuyển đổi giống cây trồng nhưng khi cần thiết có thể quay trở lại trồng lúa.
Lý do chủ yếu được đưa ra là vấn đề an ninh lương thực quốc gia. Nhưng cũng đã có một số quan điểm cho rằng nếu Việt Nam nâng cao hiệu suất sử dụng khoa học kỹ thuật và ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, thì con số cần thiết để đảm bảo an ninh lương thực quốc gia là thấp hơn nhiều, theo tính toán chỉ cần 1 triệu hecta là đủ. Việc vẫn giữ diện tích đất trồng lúa trên cả nước ở một mức rất cao là 3,76 triệu hecta cho thấy Việt Nam vẫn đang đặt ưu tiên cho sản xuất lúa gạo lên hàng đầu trong ngành nông nghiệp trong những năm sắp tới. Tuy nhiên, nghịch lý lớn nhất ở đây là chiến lược to tát ấy lại đang có chiều hướng đi xuống về giá trị và kết quả thu được.
Nhưng con số thống kê mới nhất về tình hình xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm 2016 đang minh chứng rõ nét cho điều này. Theo báo cáo mới nhất từ Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng khối lượng xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam trong 3 tháng đầu năm nay đạt tổng cộng 1,6 triệu tấn với tổng giá trị thu được là 692 triệu USD, tăng 41,6% về khối lượng và tăng 40,8% về giá trị so với cùng kỳ năm 2015. Xuất khẩu lúa gạo tăng cả về lượng lẫn chất ở tỷ lệ lớn như thế là điều ai cũng mừng, nhưng đằng sau những con số thống kê tốt đẹp ấy lại đang là những sự thật đau đớn. Đó là kể từ đầu tháng 4.2016, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đang có xu hướng giảm trong khi giá lúa trên thị trường thế giới vẫn đang ở mức cao. Cụ thể, đến tuần thứ 2 của tháng 4, giá gạo xuất khẩu duy trì ở mức 370 USD/tấn, giảm 10 USD/tấn so với tuần trước và giảm 5 USD/tấn so với thời điểm tháng 3.2016.
Điều đáng nói ở đây, trong khi giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đang suy giảm trong bối cảnh giá gạo trên thị trường thế giới vẫn cao, thì các nước xuất khẩu gạo khác vẫn giữ được giá bán cao, mà Thái Lan là điển hình. Đây là kết quả của một thực trạng đã kéo dài rất nhiều năm qua trong ngành nông nghiệp Việt Nam: lúa gạo của Việt Nam nhiều về số lượng nhưng kém về chất lượng. Nhược điểm nghiêm trọng này đang khiến cho lúa gạo Việt Nam đánh mất dần thị phần ở những phân khúc có giá trị lớn nhất là lúa gạo chất lượng cao cho tầng lớp trung lưu. Đây cũng là điều đã được chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan chỉ ra trong hội thảo về xây dựng và thực thi chính sách toàn diện về cạnh tranh hôm 15.4 vừa qua, theo đó lúa gạo Việt Nam trong tương lai sẽ chỉ bán cho người nghèo, trong khi giới trung lưu sẽ sử dụng gạo của Thái Lan và Campuchia, kể cả giới trung lưu Việt Nam. Trên thực tế điều này đã xảy ra tại khu vực phía nam và đặc biệt là tại TP.HCM khi gạo và các sản phẩm nông sản của Campuchia đã đánh bật các sản phẩm nông sản của Việt Nam trong thói quen sử dụng của người tiêu dùng.
Việc tiếp tục giữ lại cơ cấu nông nghiệp cũ (đại đa số diện tích đất nông nghiệp được quy hoạch để trồng lúa), đồng thời cũng vẫn giữ nguyên những nhược điểm chết người của cách vận hành thiếu hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, đang là những minh chứng cho thấy nông nghiệp Việt Nam đang thực sự ngược đường, và đồng thời là cả lạc đường nữa. Vấn đề lớn nhất của nền kinh tế Việt Nam hiện nay theo cảnh báo của các chuyên gia trong và ngoài nước, đồng thời cũng đã được Chính phủ và Quốc hội thừa nhận, đó là phải tìm cách đột phá vào chuỗi giá trị quốc tế sâu rộng hơn, trong đó phải nắm được những nấc thang có giá trị lớn hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Điều này cũng đúng trong nông nghiệp, khi xu hướng phát triển trong tương lai của nền nông nghiệp là tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn và giá trị lớn hơn, không chỉ cạnh tranh được với các sản phẩm nước ngoài mà còn phải giành chiến thắng trong các phân khúc thị trường.
Đó là điều mà những nước như Thái Lan và Campuchia đã làm, khi tập trung sản xuất các mặt hàng có chất lượng cao và giá thành lớn, chiếm được niềm tin của người tiêu dùng, mà điển hình là lúa gạo. Trong khi đó Việt Nam vẫn miệt mài sản xuất ra những loại gạo có năng suất cao nhưng giá trị thấp, đi ngược lại với xu thế chung, kết quả nhận được là đánh mất thị phần và để lúa gạo và nông sản nước ngoài chiếm lĩnh ngay thị trường nội địa, trong khi tỷ lệ nông dân ở Việt Nam bỏ ruộng ngày càng tăng do lợi nhuận thu được quá thấp. Và đổi lại tất cả những kết quả tồi tệ đó là việc tiếp tục giữ vững danh hiệu “cường quốc xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới” mà chẳng đem lại được lợi ích gì trên thực tế.
Việc ngành nông nghiệp Việt Nam đang đi ngược đường, hay nói chính xác hơn là lạc đường hoàn toàn, còn đang dẫn tới những hệ quả nghiêm trọng mà lẽ ra chúng ta đã tránh được. Nếu dựa vào con số thống kê về số doanh nghiệp đang hoạt động trong từng lĩnh vực trong nền kinh tế Việt Nam, thì hẳn ngành nông nghiệp đang là lĩnh vực trì trệ nhất, khi con số doanh nghiệp hoạt động trong ngành nông nghiệp chỉ có khoảng từ 1.000-3.000. Các rào cản đầy rẫy đang là yếu tố ngăn cản các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư vào ngành nông nghiệp, thay vào đó họ chuyển hướng sang đầu tư vào nông nghiệp ở Campuchia, Lào hay Myanmar – những quốc gia có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong môi trường đầu tư kinh doanh, trong khi Chính phủ và Nhà nước thì rát cổ kêu gọi các doanh nghiệp nội địa đầu tư vào nền nông nghiệp nước nhà đang chết dần chết mòn. Đó là một kết cục cay đắng, nhưng hợp lý.
Có thể nói rằng trong số tất cả các lĩnh vực chủ chốt trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, nông nghiệp đang là lĩnh vực trì trệ và tụt hậu nhất, dù đây vẫn là ngành đem lại gần 20% GDP mỗi năm cho nền kinh tế. Sự trì trệ và tụt hậu của ngành nông nghiệp không nằm ở giá trị xuất khẩu mà nó đem về cho đất nước, mà nằm ở chiến lược phát triển của lĩnh vực này đang đi ngược lại với xu thế phát triển chung của đất nước và nền kinh tế. Trong khi cả nền kinh tế đang khuyến khích cạnh tranh, nâng cao năng suất và tăng cường đầu tư, ứng dụng công nghệ, thì chỉ có nông nghiệp là đi ngược lại. Nông nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn đang đi theo hướng phản cạnh tranh, hay nói chính xác hơn là chống cạnh tranh, trong đó không đặt mục tiêu đạt giá trị hiệu quả kinh tế lớn nhất lên hàng đầu, mà là để giữ vững một vài danh hiệu vô bổ nào đó.