Tổ chức Hội thảo Một số bất cập của Luật Trồng trọt và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực phân bón

Tổ chức Hội thảo Một số bất cập của Luật Trồng trọt và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực phân bón

Thứ năm, 11/09/2025, 22:16 GMT+7

Tổ chức Hội thảo Một số bất cập của Luật Trồng trọt và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực phân bón

Tổ chức Hội thảo Một số bất cập của Luật Trồng trọt và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực phân bón

Sáng 11/9, tại Hà Nội, Tổng hội Nông nghiệp và PTNT Việt Nam phối hợp với Hiệp hội Phân bón Việt Nam, Hội SXKD Thuốc BVTV Việt Nam, Hiệp hội Thương mại giống cây trồng Việt Nam tổ chức Hội thảo “Một số bất cập của Luật Trồng trọt và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực phân bón”.

Hội thảo “Một số bất cập của Luật Trồng trọt và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực phân bón” được tổ chức với mục tiêu:

- Lắng nghe ý kiến từ các nhà quản lý, chuyên gia, doanh nghiệp và người làm thực tiễn;

- Phân tích, chỉ ra những hạn chế, bất cập trong Luật Trồng trọt và các văn bản liên quan;

- Đề xuất, kiến nghị những giải pháp, điều chỉnh phù hợp nhằm góp phần hoàn thiện chính sách pháp luật, tạo hành lang thông thoáng, minh bạch, thúc đẩy ngành phân bón phát triển bền vững, đồng hành cùng nông dân và sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nông thôn nước ta.

Trong những năm qua, Luật Trồng trọt cùng các văn bản hướng dẫn thi hành đã góp phần quan trọng vào việc quản lý nhà nước đối với ngành phân bón, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển, nâng cao chất lượng sản phẩm, bảo vệ quyền lợi của nông dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tiễn triển khai cũng cho thấy vẫn còn nhiều bất cập, chồng chéo, chưa phù hợp với tình hình thực tế sản xuất – kinh doanh. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quản lý, làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp, thậm chí gây khó khăn cho nông dân trong việc tiếp cận và sử dụng phân bón chất lượng, giá thành hợp lý.

Phát biểu tại Hội thảo, Ông Nguyễn Trí Ngọc - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Tổng hội Nông nghiệp và PTNT Việt Nam cho biết: Luật Trồng trọt được Quốc hội thông qua năm 2018 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2020, tạo hành lang pháp lý quan trọng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và quản lý trong lĩnh vực trồng trọt, đặc biệt là quản lý phân bón. Sau hơn 5 năm triển khai, Luật đã phát huy tác dụng tích cực, góp phần thúc đẩy phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy còn tồn tại nhiều hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung để phù hợp hơn với yêu cầu phát triển mới và xu thế hội nhập quốc tế.

NTN

 

Ông Nguyễn Trí Ngọc - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Tổng hội Nông nghiệp và PTNT Việt Nam phát biểu

 

Chỉ ra những bất cập về thực trạng quản lý phân bón tại Việt Nam hiện nay, kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, TS. Trương Hợp Tác - Chuyên gia phân bón cho biết, hiện chưa có đề án phát triển phân bón Việt Nam, thiếu định hướng cụ thể.

Căn cứ chủ trương cắt giảm thủ tục hành chính tại Nghị quyết 68-NQ/TW, TS. Tác đề xuất một loạt việc cắt giảm các thủ tục quản lý trong ngành phân bón: Bãi bỏ quyết định công nhận phân bón lưu hành tại Việt Nam và các thủ tục hành chính kèm theo; Bãi bỏ yêu cầu khảo nghiệm phân bón và các thủ tục hành chính kèm theo; Bãi bỏ chứng nhận Hợp quy phân bón và các thủ tục hành chính kèm theo; Bổ sung nội dung cấm sử dụng chất nhuộm màu trong phân bón…

Nguyên nhân đề xuất cắt giảm là do thời gian kéo dài, tiêu tốn kinh phí cho doanh nghiệp, thực chất đây là loại Giấy phép con hành doanh nghiệp. Hàng năm các doanh nghiệp toàn quốc phải tiêu tốn hàng nghìn tỷ đồng do các thủ tục này. Những thủ tục này không có tác dụng trực tiếp gì đối với việc quản lý chất lượng phân bón.

THT

TS. Trương Hợp Tác, Nguyên Trưởng phòng phân bón Cục Trồng trọt và BVTV

 

Việc bắt buộc chứng nhận hợp quy phân bón và phải chứng nhận lại Hợp quy phân bón gây lãng phí về tiền của, nhưng thực chất không quản lý được chất lượng tại nơi sản xuất và lưu thông trên thị trường. quá trình đánh giá chứng nhận chỉ xảy ra tại một số thời điểm, không phải suốt quá trình sản xuất, buôn bán do vậy không có ý nghĩa trong quản lý. Trong sản xuất, buôn bán, các doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về chất lượng, dưới sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý các cấp, nếu các cấp làm hết trách nhiệm của mình thì mới thực chất quản lý được chất lượng.

 

HVT

Ông Hoàng Văn Tại - nguyên Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần phân lân nung chảy Văn Điển phát biểu

 

Đồng tình với chuyên gia Trương Hợp Tác, ông Hoàng Văn Tại - nguyên Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần phân lân nung chảy Văn Điển cũng cho rằng, cần soát xét sửa lại luật Trồng trọt các chương, các điều liên quan đến phân bón, soát xét sửa lại Quy chuẩn Quốc gia về chất lượng phân bón. Bởi, ông cho rằng hiện có rất nhiều sạn từ giải thích từ ngữ, định nghĩa đặt tên phân bón đến các tiêu chuẩn yêu cầu kỹ thuật, phương pháp phân tích.

Ông Tại đề xuất bỏ toàn bộ việc chứng nhận hợp quy, khảo nghiệm, cấp phép lưu hành phân bón tại Việt Nam vì những công việc này không giúp ích gì cho sản xuất và quản lý, chỉ gây khó khăn cho doanh nghiệp, lỡ cơ hội làm ăn của doanh nghiệp, tăng chi phí sản xuất, tăng giá thành, giá bán sản phẩm cho nông dân.

Trong quy chuẩn Quốc gia (QCQG), tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN), đề xuất Nhà nước chỉ quy định mức tối thiểu các hàm lượng dinh dưỡng cho từng loại phân bón làm cơ sở cho các doanh nghiệp sản xuất thiết kế sản phẩm và công bố chất lượng đạt TCVN, QCQG này. Cùng với đó, tăng cường công tác hậu kiểm của các cơ quan quản lý nhà nước liên quan, xử phạt nghiêm minh các đơn vị vi phạm chất lượng hoặc không đạt mức chất lượng công bố.

APROMACO

Ông Đỗ Đức Hùng - Phó Tổng giám đốc Công ty CP Vật tư Nông sản phát biểu

 

Liên quan đến thuế xuất khẩu phân bón, một số doanh nghiệp cho rằng, việc áp dụng thuế suất 5% tại Việt Nam đã làm giảm cơ hội kinh doanh, giảm hiệu quả sản xuất và làm suy giảm năng lực cạnh tranh của các nhà sản xuất Urea, SSP, SOP trong nước trên thị trường quốc tế. Kiến nghị các cơ quan chức năng xem xét điều chỉnh giảm mức thuế suất xuất khẩu urê từ 5% về mức 0%, nhằm:

• Hỗ trợ các doanh nghiệp duy trì hoạt động ổn định, tiêu thụ lượng urê dư thừa không dùng hết trong nước;

• Tăng năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế;

• Tận dụng tốt công suất nhà máy và đóng góp ngoại tệ cho nền kinh tế.

PH1

 

TS. Phùng Hà – Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam phát biểu kết luận

Kết luận Hội thảo, TS. Phùng Hà – Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam tổng kết ý kiến của các đại biểu và thống nhất một số nội dung thảo luận và kiến nghị như sau.

I. Những ưu điểm và hạn chế sau 5 năm thực hiện Luật Trồng trọt (Lĩnh vực quản lý phân bón).

Luật Trồng trọt được Quốc hội thông qua năm 2018, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2020, thay thế Pháp lệnh Giống cây trồng số 15/2004/PL-UBTVQH11.

Luật Trồng trọt luật hóa các quy định về quản lý phân bón, nhằm quản lý phân bón chặt chẽ, hiệu quả trên thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng; đơn giản, minh bạch các thủ tục hành chính cho tổ chức, cá nhân đầu tư phát triển ngành phân bón.

Sau 5 năm thực thi Luật Trồng trọt đã có những mặt đạt được trong quản lý phân bón như quy định phân bón là hàng hóa kinh doanh có điều kiện, yêu cầu công nhận lưu hành, kiểm soát chất lượng dựa trên QCVN và khảo nghiệm, đồng thời quy định rõ thời hạn, gia hạn công nhận phân bón.

Tuy nhiên, Luật này vẫn còn những mặt chưa được, đặc biệt là trong việc xử lý các vấn đề thực tiễn như phân bón giả, kém chất lượng, hoặc việc kiểm soát chặt chẽ hơn nữa chuỗi cung ứng phân bón, và các quy định có thể chưa theo kịp với sự phát triển của các loại phân bón mới, phân bón sinh học.

 1. Ưu điểm.

Tạo hành lang pháp lý rõ ràng: Luật Trồng trọt 2018 là văn bản pháp luật đầu tiên có hiệu lực từ ngày 01/01/2020, quy định cụ thể về quản lý hoạt động trồng trọt và các hoạt động liên quan như phân bón.

Kiểm soát chất lượng chặt chẽ: Phân bón được quy định là hàng hóa kinh doanh có điều kiện, yêu cầu doanh nghiệp phải có Quyết định công nhận phân bón lưu hành tại Việt Nam.

Áp dụng quy chuẩn quốc gia: Việc yêu cầu đáp ứng các chỉ tiêu chất lượng theo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng phân bón (QCVN) và kết quả khảo nghiệm giúp đảm bảo phân bón lưu hành đạt tiêu chuẩn.

Quy định về thời hạn công nhận:  Quyết định công nhận phân bón có thời hạn 5 năm và có thể gia hạn, giúp Nhà nước quản lý và cập nhật các loại phân bón mới.

2. Hạn chế.

Phân bón giả, kém chất lượng: Việc kiểm soát và xử lý các hành vi sản xuất, kinh doanh phân bón giả, kém chất lượng vẫn là thách thức lớn. Cần phải có biện pháp mạnh hơn nữa trong việc chống hàng giả trong phân bón. Quy định trong Luật Trồng trọt chưa đủ sức răn đe, chung chung; kiểm soát không được các sản phẩm này trên thị trường, cuối cùng người nông dân lại gánh hậu quả.

Kiểm soát chuỗi cung ứng: Mặc dù có quy định, việc kiểm soát toàn bộ chuỗi cung ứng phân bón, từ sản xuất, nhập khẩu đến lưu thông, vẫn chưa thực sự chặt chẽ, đặc biệt với các nhà phân phối nhỏ lẻ.

Áp dụng với các loại phân bón mới: Các quy định hiện tại có thể chưa theo kịp với sự phát triển của các loại phân bón mới, như phân bón sinh học hay các chế phẩm sinh học, đòi hỏi những quy định linh hoạt và cập nhật hơn.

Thiếu chế tài đủ mạnh: Việc xử phạt chưa đủ sức răn đe để ngăn chặn các vi phạm trong kinh doanh phân bón.

 

II. Những bất cập của Luật trồng trọt về lĩnh vực quản lý phân bón và kiến nghị sửa đổi.

1. Điểm bất cập thứ nhất:

Quyết định công nhận phân bón lưu hành tại Việt Nam và các thủ tục hành chính kèm theo.

Theo quy định tại Chương II, Nghị định 84/2019/NĐ-CP của Chính phủ Quy định về quản lý phân bón thì trong thời hạn 3 tháng khi nhận đủ hồ sơ mới được xét cấp Quyết định công nhận; Thời hạn Quyết định công nhận là 5 năm. Vì vậy viêc cấp, cấp lại, gia hạn Quyết định công nhận phân bón gây khó khăn về thời gian, kinh phí cho doanh nghiệp. Thực tế cho thấy hàng loạt phân bón kém chất lượng, phân bón giả vẫn tràn lan mặc dù hàng chục nghìn loại phân bón đã được cấp phép lưu hành. Tất cả những chi phí để được cấp Quyết định công nhận, cấp lại đều được tính vào giá thành sản phẩm phân bón, cuối cùng người nông dân phải gánh chịu toàn bộ chi phí không cần thiết này.

Kiến nghị: Với những lý do nêu trên, cần loại bỏ Quyết định công nhận phân bón lưu hành tại Việt Nam khỏi Luật Trồng trọt, và Nghị định của Chính phủ vì chỉ gây khó khăn, tốn kém cho doanh nghiệp. Chỉ nên quy định, khi doanh nghiệp có đủ điều kiện về sản xuất, buôn bán phân bón thì doanh nghiệp được phép sản xuất, buôn bán những loại phân bón có trong QCVN đã được ban hành. Trên cơ sở có QCVN xem, xét bỏ đăng ký công nhận phân bón lưu hành tại Việt Nam đối với các loại phân bón chứa các chất đa, trung, vi lượng.

2. Điểm bất cập thứ hai liên quan đến vấn đề khảo nghiệm:

Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia (gọi tắt là QCVN) đã được ban hành, đó là hàng rào kỹ thuật quy định mức dinh dưỡng tối thiểu và mức tối đa các chất độc hại có trong phân bón. Hiện nay, rất nhiều phân bón phù hợp với QCVN nhưng vẫn phải khảo nghiệm, thủ tục thực hiện khảo nghiệm thì quá dài, phức tạp gây tốn kém kinh phí và làm chậm quá trình sản xuất của các doanh nghiệp.

Theo quy định hiện hành, trừ các phân vô cơ đơn, phân phức hợp, phân hữu cơ... thì tất cả các loại phân bón khác đều phải khảo nghiệm rồi mới được cấp lưu hành. Trên thực tế có nhiều sản phẩm có thành phần và công dụng giống nhau nhưng vẫn phải thực hiện công tác khảo nghiệm riêng biệt gây tốn kém về chi phí, thời gian, nhân lực làm tổn hại nguồn lực, sức canh tranh của doanh nghiệp. Thuốc chữa bệnh đòi hỏi cao hơn nhiều về tính an toàn nhưng tại Thông tư số 03/2012/TT-BYT ngày 02 tháng 02 năm 2012 quy định miễn thử nghiệm lâm sàng với thuốc gốc (generic) và thuốc đã lưu hành ít nhất 5 năm tại nước xuất xứ và được cơ quan có thẩm quyền của nước xuất xứ công nhận an toàn và hiệu quả.

Kiến nghị: Bỏ khảo nghiệm các loại phân bón đã được quy định tiêu chuẩn trong QCVN hoặc mở rộng bỏ khảo nghiệm các loại phân bón hỗn hợp NPK, trung, vi lượng. Chỉ khảo nghiệm các loại phân bón có liên quan đến sinh học (vi sinh vật, nấm, điều hòa sinh trưởng…) và phân bón có yếu tố mới. Các nguyên tố dinh dưỡng cây trồng đa, trung, vi lượng là các chất rất cơ bản và sử dụng rất nhiều năm, khắp nơi trên thế giới nên đề xuất bỏ quy định này. Trên thế giới, cơ bản các quốc gia cũng không áp dụng quy định khảo nghiệm đối với phân bón.

3. Điểm bất cập thứ ba:

Chỉ cho phép doanh nghiệp có mã số phân bón ủy quyền cho một đơn vị để nhập khẩu.

Kiến nghị: Mở rộng quy định cho phép một doanh nghiệp có mã số phân bón được ủy quyền mã số phân bón đó cho một đơn vị khác để nhập khẩu/gia công sản xuất trong nước và kinh doanh/phân phối sản phẩm đó (đơn vị được ủy quyền có chức năng kinh doanh phân bón). Lý do nhằm tăng tính linh hoạt trong vận hành chuỗi cung ứng cũng như phù hợp với thực tiễn kinh doanh vì hạn chế ủy quyền khiến việc triển khai kinh doanh gặp khó khăn.

4. Điểm bất cập thứ tư liên quan đến chất nhuộm màu:

Hiện nay, một số loại phân bón được nhuộm bằng chất màu không rõ nguồn gốc để tạo ra các màu sắc khác nhau (0,4-1,0 kg/tấn phân bón). Việc sử dụng các chất tạo màu chưa biết rõ tính chất có thể gây ra những nguy hại đến sức khỏe của đất và đặc biệt là chất lượng nông sản.

Kiến nghị: Cần cấp thiết đánh giá, bổ sung các quy định về việc sử dụng chất nhuộm màu trong phân bón.

5. Điểm bất cập thứ năm:

Tại Điều 47, Luật TCQC quy định: “Chứng nhận hợp quy được thực hiện bắt buộc đối với sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, quá trình, môi trường thuộc đối tượng quy định trong các quy chuẩn kỹ thuật tương ứng”. Theo quy định này, phân bón thuộc đối tượng phải thực hiện chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy (Điều 48, Luật TCQC). Cùng với các quy định khác tại các văn bản pháp luật chuyên ngành, có thể khẳng định rằng một sản phẩm phân bón trước khi được cấp Quyết định công nhận phân bón lưu hành tại Việt Nam đã trải qua một quá trình kiểm tra, đánh giá của các cơ quan có chuyên môn. Việc công bố hợp quy hiện nay không có ý nghĩa trong thực tế quản lý, hình thức và trùng lặp. Ngoài ra còn tăng chi phí sản xuất và bỏ lỡ cơ hội kinh doanh và gây cản trở cho hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa, dễ phát sinh tiêu cực.

Kiến nghị: Không áp dụng hình thức công bố hợp quy trong quy định hiện hành và trong dự thảo sửa đổi Luật TCQC và Luật CLSP.

III. Kiến nghị về thuế xuất khẩu phân bón

Liên quan đến thuế xuất khẩu phân bón, một số doanh nghiệp cho rằng, việc áp dụng thuế suất 5% tại Việt Nam đã làm giảm cơ hội kinh doanh, giảm hiệu quả sản xuất và làm suy giảm năng lực cạnh tranh của các nhà sản xuất Urea, SSP, SOP trong nước trên thị trường quốc tế. Kiến nghị các cơ quan chức năng xem xét điều chỉnh giảm mức thuế suất xuất khẩu urê từ 5% về mức 0%, nhằm:

• Hỗ trợ các doanh nghiệp duy trì hoạt động ổn định, tiêu thụ lượng urê dư thừa không dùng hết trong nước;

• Tăng năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế;

• Tận dụng tốt công suất nhà máy và đóng góp ngoại tệ cho nền kinh tế.

 

HỘI THẢO ĐƯỢC ĐÔNG ĐẢO ĐẠI BIỂU THAM GIA

NVB

TS. Nguyễn Văn Bộ, nguyên Vụ trưởng Vụ KHCN, Bộ NN&PTNT phát biểu

 

KIYT

TS. Lê Hoàng Kiệt, Công ty CP Phân bón Dầu khí Cà Mau phát biểu

 

TXY

TS. Trần Xuân Định, Phó Chủ tịch kiêm TTK Hiệp hội Thương mại giống cây trồng Việt Nam phát biểu

 

TYN

Ông Trần Đại Nghĩa, Phó TGĐ Công ty CP Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao phát biểu

 

NVS

Ông Nguyễn Văn Sơn, Chủ tịch Hiệp hội SXKD Thuôc BVTV Việt Nam phát biểu

 

quang

Đại biểu tham dự Hội thảo chụp ảnh lưu niệm

 

QUANG_CYNH

Toàn cảnh buổi Hội thảo


Người viết : admin